Nguyễn Trãi 阮廌 (1380-1442) hiệu Ức Trai 抑齋, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Cùng thiên đường truyện đọc 1 trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trãi
Thu nguyệt ngẫu thành
U trai thuỵ khởi độc trầm ngâm,
Án thượng hương tiêu tịnh khách tâm.
Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến,
Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim.
Nho phong lãnh đạm thời tình bạc,
Thánh vực ưu du đạo vị thâm.
Độc bãi quần thư vô cá sự,
Lão mai song bạn lý dao cầm.
Dịch nghĩa
Phòng vắng ngủ dậy, một mình trầm ngâm,
Hương trên án cháy hết lắng sạch lòng khách.
Trong cõi tĩnh lặng kinh sợ nỗi biến hoá muôn ngàn của trời đất,
Ở cảnh nhàn tháng ngày đáng giá ngàn vàng.
Thói nhà nho lạnh nhạt, tình đời bạc bẽo,
Cõi thánh thong dong mùi đạo thâm sâu.
Đọc xong các sách không bận việc gì,
Bên cội mai già cạnh song cửa gảy dao cầm.